Chọn kiểu gõ: Tự động TELEX VNI Tắt
 
luanvanviet
Giới thiệu cho bạn bè
Gửi lời cảm ơn

Gia nhập: 3/3/2018

Tổng Lượt Xem:  4832

170 điểm
Lời cảm ơn
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
Đánh giá
Danh mục địa điểm đánh giá
Bài viết diễn đàn Có 17 bài viết diễn đàn
06/12/2019
152 lượt xem
Trong bài viết này, Luận Văn Việt chuyên chạy spss thuê sẽ hướng dẫn bạn cách chạy thống kê tần số trong SPSS một cách chi tiết nhất. Cách chạy thống kê tần số trong SPSS như thế nào? Cách chạy thống kê tần số trong SPSS như thế nào? Thống kê tần số thường áp dụng cho các biến định tính. Ví dụ như: giới tính, trình độ, tuổi tác, học vấn, nghề nghiệp, thu nhập…Thống kê tần số để xác định số lần xuất hiện của một giá trị cụ thể trong tổng thể. . Thống kê dùng phần mềm SPSS, ngoài ra excel cũng hỗ trợ thống kê dạng này. Để phân tích thống kê tần số, đầu tiên, bạn vào menu Analyze - Descriptive Statistics - Frequencies thống kê tần số thống kê tần số Giả sử bạn cần thống kê mô tả cho thuộc tính nhóm Class Rank, dữ liệu nhóm gồm 4 nhóm, được mã hóa là 1 2 3 4 trong file dữ liệu. Nhóm 1 ứng với Freshman, nhóm 2 Sophomore…vv. Đưa biến định tính cần thống kê tần suất vào ô Variable(s) (có thể đưa vào nhiều biến cùng một lúc) thống kê tần số (2) thống kê tần số (2) Để mặc định các tùy chọn khi nhấn vào nút “Statistics”, tuy nhiên bạn muốn thực hiện kiểm định Skewness và Kurtosis thì có thể check vào ô tương ứng bên dưới. thống kê tần số (3) thống kê tần số (3) Để mặc định các tùy chọn khi nhấn vào nút “Charts”. Nếu bạn cần vẽ biểu đồ có thể chọn loại biểu đồ cần thể hiện ở mục “Chart Type”, tuy nhiên theo kinh nghiệm của Luận văn Việt thì nên dùng Excel để vẽ biểu đồ, sẽ đẹp hơn SPSS rất nhiều. thống kê tần số (4) thống kê tần số (4) Ngoài dịch vụ viết luận văn tốt nghiệp của Luận Văn Việt, bạn có thể tham khảo dịch vụ làm báo cáo thuê , làm luận văn thuê cần thơ , thuê làm đồ án tốt nghiệp , làm tiểu luận thuê #luan_van_viet, #luận_văn_việt, #lvv , #xử_lý_số_liệu_spss, #chạy_spss_thuê, #thuê_chạy_spss Xem thêm: https://luanvanviet.com/cach-chay-thong-ke-tan-so-trong-spss-nhu-the-nao/
05/12/2019
156 lượt xem
Luận Văn Việt Group chuyên làm luận văn tốt nghiệp xin chia sẻ bài viết về Quản lý nhà nước về kinh tế là gì? Các phương pháp pháp quản lý nhà nước về kinh tế. Các phương pháp quản lý nhà nước về kinh tế Các phương pháp quản lý nhà nước về kinh tế Các công cụ quản lý nhà nước về kinh tế Công cụ quản lý nhà nước về kinh tế là tổng thể những phương tiện mà Nhà nước sử dụng để thực hiện các chức năng quản lý nhà nước về kinh tế của mình nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Thông qua các công cụ quản lý với tư cách là vật truyền dẫn tác động quản lý của Nhà nước mà Nhà nước chuyển tải được ý định và ý chí của mình đến các chủ thể tham gia hoạt động trong nền kinh tế. 1. Nhóm công cụ thê hiện mục tiêu quản lý 1.1. Đường lối phát triên kinh tế — xã hội Là khởi đầu của quá trình xây dựng và phát triển kinh tế của đất nước do Đảng cầm quyền của quốc gia xây dựng và thực hiện. Đó là việc xác định trước một cái đích mà nền kinh tế cần đạt đến, sau đó căn cứ vào thực trang của nền kinh tế để tìm ra lối đi, cách đi, trình tự và thời hạn tiến hành để đạt được cái đích đó; Đường lối phát triển kinh tế — xã hội có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với vận mệnh đất nước, nó được coi là công cụ hàng đầu của Nhà nước trong sự nghiệp quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Đường lối đúng sẽ đưa đất nước đến phát triển, ổn định, giàu mạnh, công bằng và văn minh. Đường lối sai sẽ đưa đất nước đi lầm đường, là tổn thất, đổ vỡ, suy thoái, là hậu quả khôn lương về mọi mặt của đời sống kinh tế — xã hội. 1.2. Chiến lược phát triên kinh tế — xã hội Chiến lược phát triển kinh tế — xã hội là một hệ thống các quan điểm cơ bản, các mục tiêu lớn và các giải pháp chủ yếu được lựa chọn nhằm đạt được một bước đường lối phát triển kinh tế — xã hội trong một thời gian đủ dài. Chiến lược phát triển kinh tế — xã hội là sự cụ thể hoá đường lối phát triển kinh tế — xã hội, và cũng do Đảng cầm quyền chỉ đạo và xây dựng. 1.3. Quy hoạch phát triên kinh tế — xã hội Quy hoạch phát triển kinh tế — xã hội là việc định hướng phát triển kinh tế dài hạn, trong đó xác định rõ quy mô và giới hạn cho sự phát triển. Quy hoạch phát triển kinh tế — xã hội là xác định khung vĩ mô về tổ chức không gian nhằm cung cấp những căn cứ khoa học cho các cơ quan quản lý nhà nước để chỉ đạo vĩ mô nền kinh tế thông qua các kế hoạch, các chương trình, dựa án đầu tư bảo đảm cho nền kinh tế phát triển mạnh, bền vững và có hiệu quả. Thực chất của quy hoạch là cụ thể hoá chiến lược về không gian và thời gian. Trên thực tế, công tác quản lý kinh tế của Nhà nước có các loại quy hoạch quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch lãnh thổ, quy hoach ngành. 1.4. Kế hoạch phát triên kinh tế — xã hội Kế hoạch là cụ thể hoá chiến lược dài hạn, gồm có kế hoạch dài hạn, kế hoạch trung hạn, kế hoạch hàng năm. Thực chất, kế hoạch là một hệ thống các mục tiêu vĩ mô cơ bản được xác định như: tốc độ phát triển nền kinh tế, cơ cấu kinh tế, các cân đối lớn.. Các chỉ tiêu kế hoạch này bao quát các ngành, các vùng, các lĩnh vực và thành phần kinh tế. 1.5. Chương trình phát triên kinh tế — xã hội Chương trình phát triển kinh tế — xã hội là tổng hợp các mục tiêu, các nhiệm vụ, các thủ tục, các bước tiến hành, các nguồn lực và các yếu tố cần thiết để thực hiện một mục tiêu nhất định đã được xác định trong một thời kỳ nhất định. Ví dụ: chương trình cải cách nền hành chính quốc gia, chương trình đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, chương trình phát triển kinh tế — xã hội miền núi và vùng đồng bào dân tộc.. Chương trình là cơ sở quan trọng để tập trung những nguồn lực hạn hẹp vào việc giải quyết có hiệu quả những nhiệm vụ trọng tâm của kế hoạch Nhà nước trong từng thời kỳ và cho phép khắc phục tình trạng tách rời giữa các nhiệm vụ của kế hoạch đã được xác định để thực hiện kế hoạch Nhà nước một cách có hiệu quả. Ngoài dịch vụ viết luận văn tốt nghiệp của Luận Văn Việt, bạn có thể tham khảo dịch vụ nhận làm báo cáo thuê , hỗ trợ spss , viết luận văn bằng tiếng anh , làm tiểu luận thuê , nhận làm bài tập thuê 2. Nhóm công cụ thê hiện chuân mực xử sự hành vi của các chủ thê tham gia hoạt động trong nền kinh tế Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền, thực hiện sự quản lý đối với xã hội nói chung và nền kinh tế quốc dân nói riêng chủ yếu bằng pháp luật và theo pháp luật. Pháp luật kinh tế được hiểu là hệ thống văn bản có tính quy phạm do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để thể hiện ý chí, quyền lực của Nhà nước nhằm điều chỉnh các quan hệ trong nền kinh tế. 3. Nhóm công cụ thê hiện tư tưởng, quan điêm của Nhà nước trong việc điều chỉnh các hoạt động của nền kinh tế — Chính sách phát triển các thành phần kinh tế; — Chính sách tài chính với công cụ chi tiêu của Chính phủ và chính sách thuế; — Chính sách tiền tệ với công cụ kiểm soát mức cung tiền và lãi suất; — Chính sách thu nhập với các công cụ giá cả và tiền lương; — Chính sách ngoại thương với các công cụ thuế nhập khẩu, hạn ngạch, trợ cấp xuất khẩu, tỉ giá hối đoái. 4. Nhóm công cụ vật chất làm động lực tác động vào đối tượng quản lý — Đất đai, rừng, núi, sông hồ, các nguồn nước, thềm lục địa. ; — Tài nguyên trong lòng đất; — Dự trữ quốc gia, bảo hiểm quốc gia; — Vốn và tài sản của Nhà nước trong các doanh nghiệp; — Các loại quỹ chuyên dùng vào công tác quản lý của Nhà nước. 5. Nhóm công cụ đê sử dụng các công cụ trên Chủ thể sử dụng các công cụ quản lý của Nhà nước về kinh tế đã trình ở trên là các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế. Đó chính là các cơ quan hành chính nhà nước, các công sở và các phương tinh kinh tế — kỹ thuật được sử dụng trong hoạt động quản lý kinh tế của Nhà nước. #luan_van_viet, #luận_văn_việt, #LVV , #làm_luận_văn_tốt_nghiệp_đại_học, #quản_lý_nhà_nước_về_kinh_tế_là_gì, #công_cụ_quản_lý_nhà_nước_về_kinh_tế Xem thêm: https://luanvanviet.com/cac-phuong-phap-quan-ly-nha-nuoc-ve-kinh-te/
08/11/2019
157 lượt xem
Trong bài viết này, Luận Văn Việt chuyên làm đồ án thuê cntt xin giới thiệu đến bạn về Gis. Gis là gì? Nhiệm vụ và thành phần của Gis như thế nào? Tất cả sẽ được giải đáp trong bài viết này Gis là gì? Nhiệm vụ và thành phần của Gis Gis là gì? Nhiệm vụ và thành phần của Gis 1. GIS là gì? Hệ Thông tin địa lý (GIS) là một công cụ máy tính để lập bản đồ và phân tích các sự vật, hiện tượng thực trên trái đất. Công nghệ GIS kết hợp các thao tác cơ sở dữ liệu thông thường (như cấu trúc hỏi đáp) và các phép phân tích thống kê, phân tích địa lý, trong đó phép phân tích địa lý và hình ảnh được cung cấp duy nhất từ các bản đồ. Những khả năng này phân biệt GIS với các hệ thống thông tin khác và khiến cho GIS có phạm vi ứng dụng rộng trong nhiều lĩnh vực khác nhau (phân tích các sự kiện, dự đoán tác động và hoạch định chiến lược). Hiện nay, những thách thức chính mà chúng ta phải đối mặt — bùng nổ dân số, ô nhiễm, phá rừng, thiên tai — chiếm một không gian địa lý quan trọng. Khi xác định một công việc kinh doanh mới (như tìm một khu đất tốt cho trồng chuối, hoặc tính toán lộ trình tối ưu cho một chuyến xe khẩn cấp), GIS cho phép tạo lập bản đồ, phối hợp thông tin, khái quát các viễn cảnh, giải quyết các vấn đề phức tạp, và phát triển các giải pháp hiệu quả mà trước đây không thực hiện được. GIS là một công cụ được các cá nhân, tổ chức, trường học, chính phủ và các doanh nghiệp sử dụng nhằm hướng tới các phương thức mới giải quyết vấn đề. Lập bản đồ và phân tích địa lý không phải là kỹ thuật mới, nhưng GIS thực thi các công việc này tốt hơn và nhanh hơn các phương pháp thủ công cũ. Trước công nghệ GIS, chỉ có một số ít người có những kỹ năng cần thiết để sử dụng thông tin địa lý giúp ích cho việc giải quyết vấn đề và đưa ra các quyết định. Ngày nay, GIS là một ngành công nghiệp hàng tỷ đô la với sự tham gia của hàng trăm nghìn người trên toàn thế giới. GIS được dạy trong các trường phổ thông, trường đại học trên toàn thế giới. Các chuyên gia của mọi lĩnh vực đều nhận thức được những ưu điểm của sự kết hợp công việc của họ và GIS. Ngoài dịch vụ viết luận văn tốt nghiệp của Luận Văn Việt, bạn có thể tham khảo dịch vụ làm báo cáo thuê , hỗ trợ spss , viết luận văn tiếng anh , làm tiểu luận thuê #luan_van_viet, #luận_văn_việt, #LVV , #làm_luận_văn_tốt_nghiệp_đại_học, #làm_chuyên_đề_tốt_nghiệp, #làm_thuê_đồ_án_tốt_nghiệp_xây_dựng, #làm_thuê_luận_án_tiến_sĩ Xem thêm: https://luanvanviet.com/gis-la-gi-nhiem-vu-va-thanh-phan-cua-gis/
07/11/2019
198 lượt xem
Hàng hóa là gì và các thuộc tính cơ bản của hàng hóa là gì? Hai câu hỏi này của bạn sẽ được Luận Văn Việt chuyên viết luận văn tốt nghiệp trả lời trong bài viết dưới đây kèm theo ví dụ minh họa. Hàng hóa là gì? Các thuộc tính cơ bản của hàng hóa Hàng hóa là gì? Các thuộc tính cơ bản của hàng hóa 1. Hàng hóa là gì? Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế, đó là sản xuất tự cấp tự túc và sản xuất hàng hoá. Trong nền sản xuất hàng hoá tồn tại một phạm trù lịch sử đó chính là hàng hoá. Hàng hoá là sản phẩm của lao động, có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán. Có rất nhiều tiêu thức để phân chia các loại hàng hoá như: hàng hoá thông thường, hàng hoá đặc biệt, hàng hoá hữu hình, hàng hoá vô hình, hàng hoá tư nhân, hàng hoá công cộng… Dạng hữu hình như: sắt, thép, lương thực, thực phẩm…. Dạng vô hình như những dịch vụ thương mại, vận tải hay dịch vụ của giáo viên, bác sĩ, nghệ sĩ… Hàng hoá có thể cho một cá nhân sử dụng hoặc nhiều người cùng sử dụng. Từ khái niệm trên cho thấy: Hàng hoá là một phạm trù lịch sử, nó chỉ xuất hiện khi có nền sản xuất hàng hoá, đồng thời sản phẩm lao động mang hình thái hàng hoá khi nó là đối tượng mua bán trên thị trường. Karl Marx định nghĩa hàng hoá trước hết là đồ vật mang hình dạng có khả năng thoả mãn nhu cầu con người nhờ vào các tính chất của nó. Để đồ vật trở thành hàng hoá cần phải có: Tính hữu dụng đối với người dùng Giá trị (kinh tế), nghĩa là được chi phí bởi lao động. Sự hạn chế để đạt được nó, nghĩa là độ khan hiếm. Ngoài dịch vụ viết luận văn tốt nghiệp của Luận Văn Việt, bạn có thể tham khảo dịch vụ làm báo cáo thuê , ho tro spss , viết luận văn tiếng anh , làm tiểu luận thuê 2. Hai thuộc tính của hàng hóa Hàng hoá có hai thuộc tính cơ bản là giá trị sử dụng và giá trị. Giữa hai thuộc tính này có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau, nếu thiếu một trong hai thuộc tính thì không phải là hàng hoá. Giá trị sử dụng của hàng hoá. Giá trị sử dụng của hàng hoá là công dụng của vật phẩm có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người. Nhu cầu trực tiếp như: ăn, mặc, ở, phương tiện đi lại… Nhu cầu gián tiếp như: các tư liệu sản xuất… Bất cứ hàng hoá nào cũng có một hay một số công dụng nhất định. Chính công dụng (tính có ích) đó làm cho nó có giá trị sử dụng VD: Gạo để ăn, áo để mặc, nhà để ở, máy móc để sản xuất, phương tiện để đi lại… Giá trị sử dụng của mỗi hàng hoá là do những thuộc tính tự nhiên (vật lý, hoá học…) của vật thể hàng hoá đó quyết định nên giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn vì nó tồn tại trong mọi phương thức hay kiểu tổ chức sản xuất. Tuy nhiên, việc phát hiện ra và vận dụng từng thuộc tính tự nhiên có ích đó lại phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội. VD: Ngày xưa than đá chỉ được dùng để nấu, sưởi ấm. Khi nồi súp ra đời, than đá được dùng làm chất đốt, về sau nó cũng được dùng làm nguyên liệu cho công nghiệp hoá chất… Khoa học kỹ thuật càng phát triển, người ta càng phát hiện thêm những thuộc tính mới của sản phẩm và lợi dụng chúng để tạo ra những giá trị sử dụng mới, giá trị sử dụng chỉ thể hiện ở việc sử dụng hay tiêu dùng. Nó là nội dung vật chất của của cải. C.Mác viết: “giá trị sử dụng cấu thành cái nội dung vật chất của của cải, chẳng kể hình thái xã hội của của cải đó như thế nào” Giá trị sử dụng nói ở đây với tư cách là thuộc tính của hàng hoá, nó không phải là giá trị sử dụng cho bản thân người sản xuất hàng hoá, mà là giá trị sử dụng cho người khác, cho xã hội thông qua trao đổi — mua bán. Trong kinh tế hàng hoá, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi, giá trị sử dụng chỉ được thực hiện trong việc sử dụng hay tiêu dùng nó, khi chưa tiêu dùng thì giá trị sử dụng chỉ ở trạng thái khả năng. Để giá trị sử dụng có khả năng biến thành giá trị sử dụng hiện thực thì nó phải được tiêu dùng. Điều này nói lên ý nghĩa quan trọng của tiêu dùng đối với sản xuất. Đòi hỏi người sản xuất hàng hóa luôn luôn quan tâm đến nhu cầu của xã hội, làm cho sản phẩm đáp ứng được nhu cầu xã hội. Sự phát triển của nền kinh tế thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng, đặc biệt là sau khi Việt Nam gia nhập WTO, các doanh nghiệp trong nước ngày càng cạnh tranh quyết liệt. Vì vậy, để định vị được sản phẩm của mình trong tâm trí khách hàng là một vấn đề khó khăn và phức tạp. Để đứng vững trên thương trường, doanh nghiệp phải thường xuyên tạo ra sản phẩm có sự khác biệt và điều quan trọng là phải phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của khách hàng. Ngoài ra do khoa học kỹ thuật ngày càng tiến bộ mà công dụng của hàng hóa ngày càng đa dạng nên nhu cầu ngày càng tăng vì vậy các doanh nghiệp nên tính toán chuẩn bị lực lượng để đón đúng thời cơ. Bên cạnh công dụng và phẩm chất hàng hóa, nhà kinh doanh cần phải lưu tâm đến hình thức bao bì và nhãn hiệu hàng hóa. Dù trải qua không ít khó khăn nhưng một số doanh nghiệp trong nước đã mạnh dạn đổi mới trang thiết bị sản xuất, mẫu mã, chất lượng, marketing… Họ thành công và khẳng định danh tiếng của doanh nghiệp trong và ngoài nước. Nổi bật trong ngành may mặc hiện nay là Công ty Cổ phần Tập đoàn Thái Tuấn (Thai Tuan Group Corporation). Thành lập vào cuối năm 1993, Thái Tuấn không ngừng nỗ lực mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, từ việc đầu tư xây dựng các nhà máy dệt, phân xưởng, nhà máy nhuộm cho đến việc thành lập và phát triển các chi nhánh, hệ thống Showroom, trung tâm thời trang và phân xưởng may. Tính đến nay, Thái Tuấn đã có 3 chi nhánh, 8 Showroom, hơn 300 đại lý và trên 3.500 nhà phân phối trải đều trên toàn quốc. Cùng với việc đầu tư mở rộng hoạt động sản xuất — kinh doanh là sự phát triển mạnh mẽ về cơ sở vật chất máy móc thiết bị và đặc biệt là sự gia tăng nguồn lực con người. Bên cạnh việc tăng cường chuyển giao công nghệ tiên tiến từ Nhật Bản và Châu Âu, nguồn lực con người được Thái Tuấn chú trọng phát triển đáng kể thể hiện qua số lượng CB-CNV của công ty tính đến nay khoảng 1.300 người so với thời điểm ban đầu chỉ có 30 người. Được nhìn nhận như một trong những doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam về lĩnh vực dệt may, Công ty Thái Tuấn đã góp phần làm thị trường đa dạng, phong phú hơn với rất nhiều mẫu mã, chủng loại sản phẩm, điển hình là các dòng sản phẩm lụa, Silk thun, phi thun, voan, chất liệu cao cấp dành cho nữ sinh mang nhãn hiệu LENCII… được rất nhiều khách hàng biết đến và tin dùng, đặc biệt là dòng sản phẩm cao cấp như In digital, thêu và tơ tằm. Bên cạnh đó, Thái Tuấn cũng vừa cho ra mắt nhãn hiệu thời trang may sẵn cao cấp SILKI với các mẫu thiết kế trang phục gia đình và dạo phố dành cho các bạn gái trẻ và cả lứa tuổi trung niên. Phát triển và đổi mới theo từng giai đoạn phát triển và nhu cầu của xã hội, Cty Thái Tuấn đã đón đầu tung ra rất nhiều dòng sản phẩm đa dạng cung ứng cho thị trường trong và ngoài nước. Trong bất kỳ một xã hội nào, của cải vật chất của xã hội đều là một lượng nhất định những giá trị sử dụng. Xã hội càng tiến bộ, khoa học — kỹ thuật phát triển, phân công lao động xã hội ngày càng cao, lực lượng sản xuất càng phát triển thì số lượng giá trị sử dụng ngày càng nhiều, chủng loại giá trị sử dụng càng phong phú, chất lượng giá trị sử dụng ngàng càng tăng. Ngoài những đặc điểm chung, hàng hoá vô hình (phi vật thể) còn có những đặc điểm sau: Giá trị sử dụng không có hình thái vật thể (hữu hình) mà tồn tại dưới hình thái phi vật thể. Hàng hoá vô hình là dịch vụ. Có hai loại dịch vụ cho sản xuất và dịch vụ cho tiêu dùng, trong đó dịch vụ cho tiêu dùng phát triển ngày càng nhiều, phục vụ trực tiếp người tiêu dùng (chữa bệnh, dạy học, cắt tóc, chăm sóc sức khoẻ, thẩm mỹ…). Dịch vụ với tư cách là hàng hoá đang ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với sản xuất và đối với đời sống hiện đại. Trong nền sản xuất hàng hoá, giá trị sử dụng đồng thời cũng là vật mang giá trị trao đổi. Giá trị của hàng hoá Muốn hiểu giá trị của hàng hoá phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là quan hệ về lượng, là tỷ lệ trao đổi giữa các giá trị sử dụng khác nhau. VD: 1m vải có giá trị trao đổi bằng 10 kg thóc. Sở dĩ vải và thóc là hai hàng hóa mặc dù có giá trị sử dụng khác nhau nhưng lại có thể trao đổi với nhau được theo một tỉ lệ nhất định nào đó là vì giữa chúng có một cơ sở chung là cả vải và thóc đều là sản phẩm của lao động (thời gian lao động và công sức lao động) do lao động được chứa đựng trong hàng hoá, đó chính là cơ sở giá trị của hàng hoá. Đây là khái niệm được khẳng định trong các giáo trình kinh tế chính trị. Nếu xét nó trên quan điểm của trường phái hiệu dụng biên thì vẫn đạt được lý lẽ hoàn chỉnh. Theo đó, đối tượng chung của nhu cầu có trong các cá nhân khác nhau vẫn đảm bảo cơ sở cho trao đổi. VD: Nhu cầu ăn và mặc có trong hai cá nhân A và B, trong lúc A sở hữu áo và B sở hữu gạo thì nhu cầu chung kia sẽ tạo tiền đề cho trao đổi, tỷ lệ trao đổi tùy thuộc rất nhiều yếu tố: vị thế, độ bức xúc nhu cầu, thói quen tâm lý, quy định xã hội v.v., vì thế tỷ lệ trao đổi sẽ là ngẫu nhiên nhưng mang tính ổn định nhất định. Nhờ có cơ sở chung đó mà các hàng hoá có thể trao đổi được với nhau. Vì vậy, khi người ta trao đổi hàng hoá cho nhau về thực chất là trao đổi lao động của mình ẩn dấu trong những hàng hoá ấy. Do vậy có thể nói, lao động hao phí để sản xuất ra hàng hoá là cơ sở chung cho việc trao đổi và nó tạo thành giá trị của hàng hoá. Chất của giá trị là lao động, vì vậy sản phẩm nào không có lao động của người sản xuất chứa đựng trong đó, thì nó không có giá trị. Sản phẩm nào lao động hao phí để sản xuất ra chúng càng nhiều thì giá trị càng cao. Giá trị của hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất kết tinh trong hàng hóa. Vậy, lượng giá trị của hàng hóa được đo bằng lượng lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hóa đó. Lượng lao động tiêu hao ấy được tính bằng thời gian lao động. Lượng giá trị của hàng hóa không phải do mức hao phí lao động cá biệt hay thời gian lao động cá biệt quy định, mà nó được đo bởi thời gian lao động xã hội cần thiết. Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động cần để sản xuất ra một hàng hóa nào đó trong những điều kiện sản xuất bình thường của xã hội với một trình độ trang thiết bị trung bình, với một trình độ thành thạo trung bình và một cường độ lao động trung bình trong xã hội đó. Chỉ có lượng lao động xã hội cần thiết, hay thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa, mới quyết định đại lượng giá trị của hàng hóa ấy. Nghiên cứu lượng giá trị hàng hóa để xác định được giá cả của hàng hóa làm ra và tìm ra được những nhân tố tác động đến nó, từ đó có thể tìm ra cách để làm giảm giá cả sản xuất. Ví dụ: Tăng năng suất, đầu tư khoa học công nghệ hiện đại… mà vẫn giữ nguyên hoặc làm tăng thêm giá trị để tiến tới cạnh tranh trên thị trường, đây chính là điều mà các nhà làm kinh tế luôn hướng tới nhằm đạt được lợi nhuận cao. Trong sản xuất nông nghiệp hiện nay, cày ruộng có nhiều cách như tự cày, trâu cày hoặc máy cày. Tùy theo khả năng vốn của mỗi hộ nông dân mà chọn phương thức phù hợp, nhưng xu thế chung là sử dụng máy cày vì đây là phương thức cho hiệu quả cao nhất. Trong trao đổi, mua bán hàng hóa nông sản, nông dân luôn muốn bán sản phẩm với giá cao. Nhưng đôi khi điệp khúc được mùa mất giá diễn ra thường xuyên. Vì vậy, họ áp dụng nhiều biện pháp tiên tiến để bán nông sản với giá cao nhất như đầu tư vào khâu bảo quản đợi giá cao thì bán, hoặc đa dạng hóa đầu ra như chế biến phơi khô, sấy khô… để sản phẩm có giá trị cao hơn… Cũng giá trị trao đổi mà chúng ta để cập ở trên, chẳng qua chỉ là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của giá trị, giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi. Đồng thời, giá trị biểu hiện mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá. gắn liền với kinh tế hàng hoá. Nó là một phạm trù lịch sử. Giá trị trao đổi chỉ là hình thức biểu hiện của giá trị. Giá trị là nội dung là cơ sở của giá trị trao đổi.Cũng chính vì vậy, giá trị là phạm trù chỉ tồn tại trong kinh tế hàng hoá. Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hoá Hai thuộc tính của hàng hoá có quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau. Mặt thống nhất biểu hiện ở chỗ: Hai thuộc tính này cùng đồng thời tồn tại trong một hàng hoá. Nếu một vật có giá trị sử dụng (tức có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người, xã hội), nhưng không có giá trị (tức không do lao động tạo ra, không có kết tinh lao động) như không khí tự nhiên thì sẽ không phải là hàng hoá. Ngược lại, một vật có giá trị (tức có lao động kết tinh), nhưng không có giá trị sử dụng (tức không thể thoả mãn nhu cầu nào của con người, xã hội) cũng không trở thành hàng hoá. Mâu thuẫn giữa hai thuộc tính của hàng hoá thể hiện ở chỗ: Thứ nhất, với tư cách là giá trị sử dụng thì các hàng hoá khác nhau về chất (vải mặc, sắt thép, lúa gạo…). Nhưng ngược lại, với tư cách là giá trị thì các hàng hoá lại đồng nhất về chất, đều là “những cục kết tinh đồng nhất của lao động mà thôi”, tức đều là sự kết tinh của lao động, hay là lao động đã được vật hoá ( vải mặc, sắt thép, lúa gạo… đều do lao động tạo ra, kết tinh lao động trong đó). Thứ hai, quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng có sự tách rời nhau cả về mặt không gian và thời gian. Giá trị được thực hiện trong lĩnh vực lưu thông và thực hiện trước. Giá trị sử dụng được thực hiện sau, trong lĩnh vực tiêu dùng. Người sản xuất quan tâm tới giá trị, nhưng để đạt được mục đích giá trị bắt buộc họ cũng phải chú ý đến giá trị sử dụng, ngược lại người tiêu dùng quan tâm tới giá trị sử dụng để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của mình. Nhưng muốn có giá trị sử dụng họ phải trả giá trị cho người sản xuất ra nó. Nếu không thực hiện giá trị sẽ không có giá trị sử dụng. Mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị hàng hoá cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng sản xuất thừa. #luan_van_viet, #luận_văn_việt, #LVV , #làm_luận_văn_tốt_nghiệp_đại_học, #làm_chuyên_đề_tốt_nghiệp, #làm_thuê_đồ_án_tốt_nghiệp_xây_dựng, #làm_thuê_luận_án_tiến_sĩ Xem thêm: https://luanvanviet.com/hang-hoa-la-gi-cac-thuoc-tinh-co-ban-cua-hang-hoa/
06/11/2019
158 lượt xem
Trong bài viết này, Luận Văn Việt chuyên làm luận văn tốt nghiệp đại học xin chia sẻ đến bạn tổng quan về dự án và quản lý dự án bao gồm các nội dung về khái niệm, đặc điểm, các tiêu chuẩn đánh giá và các chức năng. Tổng quan về dự án và quản trị dự án Tổng quan về dự án và quản trị dự án 1. Khái niệm, đặc điểm của dự án 1.1. Dự án là gì? Dự án là gì ? Là một quá trình gồm các công tác, nhiệm vụ có liên quan với nhau, được thực hiện nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra trong điều kiện ràng buộc về thời gian, nguồn lực và ngân sách. 1.2. Đặc điểm của dự án Mỗi dự án phải có một hoặc một số mục tiêu rõ ràng. Thông thường người ta cố gắng lượng hoá mục tiêu thành ra các chỉ tiêu cụ thể. Mỗi dự án là một quá trình tạo ra một kết quả cụ thể. Nếu chỉ có kết quả cuối cùng mà kết quả đó không phải là kết quả của một tiến trình thì kết quả đó không được gọi là dự án. Mỗi dự án đều có một thời hạn nhất định (thường chi phí thấp Ở giai đoạn triển khai — chi phí tăng Càng về sau thì chi phí càng tăng + Việc rút ngắn tiến độ làm chi phí tăng lên rất nhiều. + Theo thời gian tính chất bất định của chi phí sẽ tăng dần lên Mỗi dự án đều sử dụng nguồn lực và nguồn lực này bị hạn chế. Nguồn lực gồm: nhân lực, nguyên vật liệu, ngân sách. Thế giới của dự án là thế giới của các mâu thuẫn. Bất kỳ một dự án nào cũng tồn tại trong một thế giới đầy mâu thuẫn (The World of Conflicts) Mâu thuẫn ở đâu ra? Giữa các bộ phận trong dự án Giữa các dự án trong tổ chức mẹ Giữa dự án và khách hàng Mỗi dự án đều mang tính độc đáo (Unique) đối với mục tiêu và việc phương thức thực hiện dự án. Không có sự lặp lại hoàn toàn giữa các dự án. Phân biệt giữa chương trình, dự án và nhiệm vụ Chương trình (Program) là một kế hoạch dài hạn bao gồm nhiều dự án. Đôi khi về mặt thuật ngữ, chương trình được dùng đồng nghĩa với dự án. Dự án (Project) là một quá trình gồm các công tác, nhiệm vụ có liên quan với nhau, được thực hiện nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra trong điều kiện ràng buộc về thời gian, nguồn lực và ngân sách. Nhiệm vụ (Task) là nỗ lực ngắn hạn trong vài tuần hoặc vài tháng được thực hiện bởi một tổ chức nào đó, đồng thời tổ chức này có thể kết hợp với các nhiệm vụ khác để thực hiện dự án. 1.3. Các loại dự án — Dự án hợp đồng (Contractual project) Sản xuất sản phẩm Dịch vụ. — Dự án nghiên cứu và phát triển (R & D Project) — Dự án xây dựng (Contruction Project) — Dự án hệ thống thông tin (Information System Project) — Dự án đào tạo và quản lý (Management & Trainning Project) — Dự án bảo dưỡng lớn (Major Maintenance Project) — Dự án viện trợ phát triển / phúc lợi công cộng (Public / Welfare / Development Project) Ngoài dịch vụ viết luận văn tốt nghiệp của Luận Văn Việt, bạn có thể tham khảo dịch vụ làm báo cáo thuê , ho tro spss , viết luận văn tiếng anh , làm tiểu luận thuê #luan_van_viet, #luận_văn_việt, #LVV , #làm_luận_văn_tốt_nghiệp_đại_học, #làm_chuyên_đề_tốt_nghiệp, #làm_thuê_đồ_án_tốt_nghiệp_xây_dựng, #làm_thuê_luận_án_tiến_sĩ Xem thêm: https://luanvanviet.com/tong-quan-ve-du-an-va-quan-ly-du-an/
05/11/2019
152 lượt xem
Cơ sở hạ tầng là gì? Kiến trúc thượng tầng của xã hội là gì? Đặc điểm và tính chất của chúng là gì và mối quan hệ giữa chúng như thế nào? Hãy tìm câu trả lời trong bài viết này của Luận Văn Việt chuyên làm luận văn tốt nghiệp . Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng 1. Cơ sở hạ tầng là gì? Cơ sở hạ tầng là tổng hợp những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một hình thái kinh tế- xã hội nhất định. Dựa vào khái niệm đó, nó đã phản ánh chức năng xã hội của các quan hệ xã hội của các quan hệ sản xuất với tư cách là cơ sở kinh tế của các hiện tượng xã hội. Đúng vậy, mỗi một hình thái kinh tế — xã hội có một kết cấu kinh tế đặc trưng là cơ sở hiện thực của xã hội, hình thành một cách quan trong quá trình sản xuất vật chất xã hội. Nó bao gồm không chỉ những quan hệ trực tiếp giữa người với người trong sản xuất vật chất mà nó còn bao gồm cả những quan hệ kinh tế, trao đổi trong quá trình tái sản xuất ra đời sống vật chất của con người. 2. Đặc điểm và tính chất của kiến trúc thượng tầng Như vậy, các bộ phận khác nhau của kiến trúc thượng tầng đều ra đời và có vai trò nhất định trong việc tạo nên bộ mặt tinh thần, tư tưởng của xã phát triển trên một cơ sở hạ tầng nhất định, là phản ánh cơ sở hạ tầng. Song không phải tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều liên quan như nhau với cơ sở hạ tầng của nó. Mà trong xã hội có giai cấp, tư tưởng chính trị, tư tưởng pháp quyền cùng những tổ chức tương ứng như chính đảng, nhà nước là những bộ phận quan trọng nhất, mạnh mẽ nhất và là thành phần chính của kiến trúc thượng tầng, tiêu biểu cho chế độ chính trị, xã hội ấy. Ngoài ra còn có các yếu tố khác đối lập với những tư tưởng quan điểm, tổ chức chính trị của các giai cấp bị trị. Kiến trúc thượng tầng của xã hội có đối kháng giai cấp mang tính giai cấp sâu sắc. Tính giai cấp của kiến trúc thượng tầng biểu hiện ở sự đối địch về quan điểm, tư tưởng và các cuộc đấu tranh về tư tưởng của các giai cấp đối kháng. Bộ phận có quyền lực mạnh nhất của kiến trúc thượng tầng của xã hội có tính chất đối kháng giai cấp là nhà nước — Đây là công cụ của giai cấp thống trị tiêu biểu cho xã hội về mặt pháp lý — chính trị. Thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNCS, những tàn dư tư tưởng của các giai cấp thống trị bóc lột vẫn còn tồn tại trong kiến trúc thượng tầng. Vì vậy, trong kiến trúc thượng tầng của các nước xã hội chủ nghĩa ở thời kỳ này vẫn còn sự đấu tranh giữa tư tưởng xã hội chủ nghĩa với những tàn dư tư tưởng khác. Chỉ đến chủ nghĩa cộng sản, tính giai cấp của giai cấp của giai cấp thượng tầng mới bị xoá bỏ. Ngoài dịch vụ viết luận văn tốt nghiệp của Luận Văn Việt, bạn có thể tham khảo dịch vụ nhận làm báo cáo thuê , dịch vụ chạy spss , viết luận văn bằng tiếng anh , làm tiểu luận thuê #luan_van_viet, #luận_văn_việt, #LVV , #làm_luận_văn_tốt_nghiệp_đại_học, #làm_chuyên_đề_tốt_nghiệp, #làm_thuê_đồ_án_tốt_nghiệp_xây_dựng, #làm_thuê_luận_án_tiến_sĩ Xem thêm: https://luanvanviet.com/moi-quan-he-giua-co-so-ha-tang-va-kien-truc-thuong-tang-cua-xa-hoi/
04/11/2019
162 lượt xem
Trong bài viết này, Luận Văn Việt chuyên làm luận văn thuê cần thơ xin chia sẻ đến bạn khái niệm, đặc thù cơ cấu tổ chức công ty hợp danh một cách chi tiết nhất. Khái niệm, đặc thù cơ cấu tổ chức công ty hợp danh Khái niệm, đặc thù cơ cấu tổ chức công ty hợp danh 1. Thế nào là công ty hợp danh? Theo Điều 130 Luật doanh nghiệp (DN) Việt nam 2005 thì công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó: Phải có ít nhất 2 thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (gọi là thành viên hợp danh), ngoài các thành viên có thể có thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh (TVHD) phải là cá nhân chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ công ty. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Công ty Hợp Danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (ĐKKD). Trong quá trình hoạt động, công ty Hợp Danh không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào. 2. Phân loại Nếu căn cứ vào những đặc điểm trên thì CTHD theo Luật doanh nghiệp có thể được chia ra làm 2 loại: — Công ty hợp danh chỉ gồm những thành viên hợp danh. — Công ty hợp danh có cả TVHD và thành viên góp vốn (TVGV). Nhưng 2 “loại” này lại được quy định chung vào với nhau, không tách bạch. Điều này thực sự không hợp lý vì 2 loại này tuy gần như hoàn toàn giống nhau về quy chế pháp lý nhưng trong thực tế sẽ phát sinh những điểm không thỏa đáng, nhất là trong việc giải thể của công ty. Điều này đã chứng tỏ sự cứng nhắc của pháp luật hiện hành. 3. Nguồn gốc công ty hợp danh Công ty Hợp Danh (CTHD) là một trong những hình thức công ty ra đời sớm nhất trong lịch sử hình thành công ty. Khái niệm về “hợp danh” bắt đầu xuất hiện và tồn tại từ khi con người bắt đầu hợp tác với nhau. Khái niệm hợp danh xuất hiện từ thời Babylone, Hy Lạp và La Mã cổ đại. Đạo Luật Hammurabi năm 2300 (TCN) cũng đã có chế định về hình thức hợp danh. Khái niệm hợp danh theo Đạo Luật Justinian của đế chế La Mã cổ đại vào thế kỷ VI, xét về bản chất không có sự khác biệt trong pháp luật hiện nay. Sau đó, đến các thời kì Trung đại, đến cuối thế kỉ XVII, rồi ở Thụy Điển, dần dần hình thành hình thức “hợp danh” rõ ràng hơn. Đến cuối thế kỉ XVII, rồi ở Thụy Điển, dần dần hình thành hình thức “hợp danh” rõ ràng hơn. Năm 1776, Mỹ giành được độc lập và áp dụng hệ thống luật thông lệ của Anh. Từ đó, luật pháp về Công ty Hợp Danh bắt đầu được áp dụng ở Mỹ. Đến đầu thế kỷ XIX, CTHD trở thành loại hình kinh doanh quan trọng nhất ở Mỹ. Ngày nay, hệ thống pháp luật thông lệ điều chỉnh Năm 1776, Mỹ giành được độc lập và áp dụng hệ thống luật thông lệ của Anh. Từ đó, luật pháp về Công ty Hợp Danh bắt đầu được áp dụng ở Mỹ. Đến đầu thế kỷ XIX, Công ty Hợp Danh trở thành loại hình kinh doanh quan trọng nhất ở Mỹ. Công ty Hợp Danh cũng là một trong những loại hình công ty điển hình được quy định trong bộ luật thương mại của Pháp từ năm 1807. Ngày nay, hệ thống pháp luật thông lệ điều chỉnh, Công ty Hợp Danh được thay thế bằng đạo luật Công ty Hợp Danh hay còn gọi là Luật thống nhất về Công ty Hợp Danh (Uniform Partnership). Thêm nữa Công ty Hợp Danh được hình thành và phát triển từ những nguyên tắc của chế định đại diện (agency) xuất phát từ những đòi hỏi của nền kinh tế thị trường về liên kết kinh doanh; tập trung và tích tụ tư bản ở những mức độ và dưới những dạng thức khác nhau. Việt Nam thì ngược lại ,loại hình công ty này ra đời muộn do điều kiện kinh tế, lịch sử, xã hội….Vốn là 1 nước trọng về nông nghiệp nên trước kia không coi trọng hoạt động thương mại và sau đó lại trải qua một thời gian dài thực hiện kinh tế tập thể. Cuối thế kỷ XIX, Pháp áp dụng 3 Bộ Luật: Dân Luật Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ vào Việt Nam cho nên xuất hiện các hình thức Doanh Nghiệp tư nhân, công ty Trách nhiệm hữu hạn và hình thức, khái niệm Công ty Hợp Danh đã bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam với hình thức Hội buôn. Năm 1954, trước Nghị quyết Đại hội lần VI của Đảng, miền Bắc tiến hành công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa, thực hiện nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung lấy kinh tế quốc doanh làm chủ đạo thì các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh không được thừa nhận. Pháp luật về công ty nói chung và CTHD nói riêng thời kỳ này không tồn tại, Nhà nước cũng chưa có những định hướng về lĩnh vực này. Miền Nam, trước 1975, loại hình CTHD được ghi nhận trong Bộ Luật Thương Mại, cơ bản giống những quy định của Pháp luật Pháp. Đến thời kỳ đổi mới, xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần đến Nghị quyết lần VI của Đảng và Nghị quyết Hội nghị lần 2 của BCH TW Đảng công nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế cá thể và tư doanh trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân đã cho ra đời Luật công ty 1990, Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật doanh nghiệp 1999. Từ 4 điều luật cũ kỹ của Luật doanh nghiệp 1999 (ban đầu là 12 điều trong Dự thảo nhưng đã bị loại bỏ gần hết khi đưa ra Quốc hội thông qua, cũng bởi hình thức của nó quá mới mẻ) đến Luật doanh nghiệp 2005 với 11 điều, hi vọng cung cấp cho giới thương nhân thêm một mô hình để lựa chọn cho phù hợp với ý tưởng kinh doanh của họ. Ngoài dịch vụ viết luận văn tốt nghiệp của Luận Văn Việt, bạn có thể tham khảo dịch vụ nhận làm báo cáo thuê , dịch vụ spss , viết luận văn bằng tiếng anh , làm tiểu luận thuê #luan_van_viet, #luận_văn_việt, #LVV , #làm_luận_văn_tốt_nghiệp_đại_học, #làm_chuyên_đề_tốt_nghiệp, #làm_thuê_đồ_án_tốt_nghiệp_xây_dựng, #làm_thuê_luận_án_tiến_sĩ Xem thêm: https://luanvanviet.com/khai-niem-dac-thu-co-cau-to-chuc-cong-ty-hop-danh/
01/11/2019
128 lượt xem
Trong bài viết này, Luận Văn Việt chuyên viết thuê luận án tiến sĩ sẽ chia sẻ đến bạn những điều cần biết về Mnc, vậy Mnc là gì? Nếu bạn đang muốn tìm hiểu sâu hơn về Mnc thì hãy xem ngay bài viết này. Mnc là gì? Khái niệm và quá trình hình thành Mnc Mnc là gì? Khái niệm và quá trình hình thành Mnc 1. Mnc là gì? Công ty đa quốc gia, thường viết tắt là MNC (từ các chữ Multinational corporation) hoặc MNE (từ các chữ Multinational enterprises), là khái niệm để chỉ các công ty sản xuất hay cung cấp dịch vụ ở ít nhất hai quốc gia. Các công ty đa quốc gia lớn có ngân sách vượt cả ngân sách của nhiều quốc gia. Công ty đa quốc gia có thể có ảnh hưởng lớn đến các mối quan hệ quốc tế và các nền kinh tế của các quốc gia. 2. Quá trình ra đời và phát triển công ty đa quốc gia Công ty Xuyên quốc gia (MNC) gắn liền với sự ra đời và phát triển của sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa. Trong thời kỳ đầu cạnh tranh tự do của chủ nghĩa tư bản, mục đích lợi nhuận và sự phát triển sản xuất đã làm tăng yêu cầu về thị trường nguyên liệu, thị trường lao động, thị trường hàng hoá và thị trường tài chính. Các yêu cầu đó đã thúc đẩy việc tăng cường khai thác và mở rộng hoạt động kinh doanh sang nước khác. Ngoài ra, sự cạnh tranh quyết liệt cùng hướng nhiều công ty trong nước đi tìm lợi nhuận trong thị trường bên ngoài. Quá trình này đã được tạo điều kiện bởi sự phát triển của thương mại quốc tế đã hình thành qua nhiều thế kỷ trước. Quá trình này cũng được tạo điều kiện bởi sự ủng hộ của các nhà nước tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa thực dân. Đồng thời, quá trình đi từ hợp tác giản đơn đến liên kết sâu sắc hơn trong giới công thương tư bản đã làm tăng khả năng thực hiện sự mở rộng này. Trên cơ sở đó, các tổ chức kinh doanh quốc tế bắt đầu được hình thành và phát triển. + Các MNC thực sự hình thành và phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ chủ nghĩa đế quốc. Trong thời kỳ này, quá trình tích tụ tư bản, tập trung sản xuất, sự kết hợp giữa giới tài chính và giới công thương đã dẫn đến sự ra đời của hàng loạt các tập đoàn sản xuất-kinh doanh lớn theo xu hướng độc quyền. Sự cạnh tranh tự do trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản với sự thôn tính “cá lớn nuốt cá bé” cũng tạo thêm điều kiện cho sự hình thành các tổ chức kinh doanh độc quyền lớn. Đáng chú ý, sự cạnh tranh và xu hướng độc quyền diễn ra mạnh mẽ cả trên thị trường trong nước lẫn ngoài nước nên càng làm tăng tính quốc tế của các công ty này. + Sự nổi lên của các công ty độc quyền và sự vươn mạnh ra thế giới còn nhờ sự kết hợp chặt chẽ giữa quyền lực kinh tế với quyền lực chính trị của nhà nước TBCN. Sau Chiến tranh Thế giới II, sự phát triển của nền kinh tế thế giới, nhu cầu tăng cường quan hệ kinh tế quốc tế và sự hợp tác chính trị giữa các TBCN đã tạo điều kiện cho sự phát triển tiếp tục của các MNC, đặc biệt trong thế giới tư bản. Nhiều MNC ra đời và phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ này. + Sự phát triển của MNC không chỉ ở sự nắm giữ các lĩnh vực kinh tế trọng yếu, năng lực tài chính và khoa học kỹ thuật,… mà còn ở sự mở rộng hoạt động kinh doanh ra khắp thế giới tư bản. Vai trò của MNC trong QHQT cũng vì thế mà đã tăng lên qua sự đóng góp rất lớn vào việc tăng trưởng các dòng đầu tư nước ngoài, thúc đẩy thương mại xuyên quốc gia và mở rộng phân công lao động quốc tế. + Đáng chú ý, sự thay đổi cách nhìn nhận về MNC ở các nước TBCN đã góp phần đáng kể cho sự mở rộng hoạt động kinh doanh quốc tế của các MNC. MNC ngày càng được coi là công cụ phát triển, là sự tạo công ăn việc làm, là nguồn thuế thu, là sự khắc phục về vốn, kỹ thuật, công nghệ và kinh nghiệm làm ăn quốc tế. Bởi thế, các nước đều mở cửa thị trường, khuyến khích FDI và thậm chí còn cạnh tranh với nhau trong việc thu hút MNC. Nhờ đó, các MNC đã bành trướng khá nhanh và mở rộng vai trò trong đời sống quốc tế. + Sau Chiến tranh Lạnh, MNC đã có sự phát triển chóng mặt với số lượng các MNC tăng gần gấp đôi, từ khoảng 37.000 đầu thập kỷ 1990 lên gần 70.000 vào năm 2004. Đồng thời, mức độ quốc tế hoá của chúng cũng phát triển chưa từng thấy với số lượng chi nhánh nước ngoài tăng gần bốn lần, từ 170.000 đầu thập kỷ 1990 lên gần 690.000 vào năm 2004. Một điểm khác cũng đáng chú ý, MNC không còn là độc quyền của các nước phát triển hàng đầu mà đã xuất hiện cả trong các nền kinh tế đang phát triển hoặc mới nổi. Tuy nhiên, quy mô và vai trò của các MNC này vẫn còn rất khiêm tốn. Các MNC cũng là người nắm giữ hầu hết vốn đầu tư nước ngoài. Các MNC thực hiện hơn 80% thương mại thế giới. Các MNC chi phối hầu hết các ngành công nghiệp và dịch vụ quan trọng của thế giới. Các MNC cũng nắm giữ phần lớn công nghệ tiên tiến và quá trình chuyển giao công nghệ. Các MNC vẫn tiếp tục nằm trong trung tâm của sự phát triển. Thế và lực của MNC tiếp tục phát triển trong những năm gần đây với xu hướng sáp nhập và thu nhận để hình thành các tập đoàn lớn, nhất là trong những lĩnh vực kinh tế quan trọng như truyền thông, ngân hàng-tài chính, giao thông vận tải… Tất cả những điều này đang làm tăng vai trò của MNC đối với quốc gia và QHQT. Ngoài dịch vụ viết luận văn tốt nghiệp của Luận Văn Việt, bạn có thể tham khảo dịch vụ nhận làm báo cáo thuê , dịch vụ spss , viết luận văn bằng tiếng anh , làm tiểu luận thuê #luan_van_viet, #luận_văn_việt, #LVV , #làm_luận_văn_tốt_nghiệp_đại_học, #làm_chuyên_đề_tốt_nghiệp, #làm_thuê_đồ_án_tốt_nghiệp_xây_dựng, #làm_thuê_luận_án_tiến_sĩ Xem thêm: https://luanvanviet.com/mnc-la-gi-khai-niem-va-qua-trinh-hinh-thanh-mnc/
30/10/2019
110 lượt xem
Quản trị chiến lược là gì, vì sao phải thực hiện quản trị chiến lược, và nên thực hiện quản trị chiến lược như thế nào? Bài viết lý luận về quản trị chiến lược của Luận Văn Việt chuyên làm thuê chuyên đề tốt nghiệp sẽ giải đáp cho bạn tất cả những câu hỏi trên. Lý luận về quản trị chiến lược Lý luận về quản trị chiến lược Quản trị chiến lược (strategic management) là nhiệm vụ hàng đầu của bất kỳ quản trị viên cấp cao nào, đôi khi được giao phó không chỉ cho một cá nhân mà cho cả một tập thể lãnh đạo trong tổ chức, doanh nghiệp. Thuật ngữ này, tuy thường xuyên được sử dụng và bàn luận, nhưng không phải nhà quản trị nào cũng hiểu về nó một cách đúng đắn, dẫn đến khi thực hiện thường mắc những sai lầm, có khi phải trả giá bằng cả sự sống còn của tổ chức, doanh nghiệp. 1. Quản trị chiến lược là gì? Quản trị chiến lược là quá trình xác định các mục tiêu chiến lược của tổ chức, xây dựng các chính sách và kế hoạch để đạt được các mục tiêu và phân bổ các nguồn lực của tổ chức cho việc thực hiện các chính sách, kế hoạch này. Như vậy, nhiệm vụ quản trị chiến lược bao gồm ba phần chính: thiết lập mục tiêu — tức xác định tổ chức muốn đi đâu, về đâu; xây dựng kế hoạch — tức xác định tổ chức sẽ đi đến đó bằng con đường nào; bố trí, phân bổ nguồn lực — tức tổ chức dùng phương tiện, công cụ gì để đến đó. Quy trình quản trị chiến lược được thực hiện qua bốn giai đoạn chính: Phân tích tình hình: bao gồm môi trường bên ngoài, bên trong. Phân tích này thường bao gồm luôn cả phân tích chính trị, môi trường, xã hội, công nghệ; phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và phân tích các thế mạnh, yếu, cơ hội, thách thức. Xây dựng chiến lược: bao gồm việc xác định sứ mệnh, thiết lập các mục tiêu, đề ra các chiến lược, chính sách. Triển khai thực hiện chiến lược: bao gồm các chương trình hành động, ngân sách, quy trình. Đánh giá và kiểm soát: bao gồm việc đánh giá kết quả và đưa ra những hiệu chỉnh cần thiết. 2. Tại sao quản trị chiến lược quan trọng? Nhiều công ty Việt Nam, nhất là những công ty nhỏ nhưng phát triển nhanh, thường bị cuốn vào vòng xoáy của công việc phát sinh hàng ngày — những công việc liên quan đến sản xuất hoặc mua hàng, tìm kiếm khách hàng, bán hàng, giao hàng, thu tiền, quản lý hàng tồn, công nợ… Hầu hết những việc này được giải quyết theo yêu cầu phát sinh, xảy ra đến đâu, giải quyết đến đó, chứ không hề được hoạch định một cách bài bản, quản lý một cách có hệ thống hoặc đánh giá hiệu quả một cách khoa học. Việc thực hiện theo sự vụ đã chiếm hết thời gian của các cấp quản lý nhưng vẫn bị rối và luôn luôn bị động. Quản trị viên cấp cao, nhất là các giám đốc điều hành, thường bị công việc sự vụ “dẫn dắt” đến mức “lạc đường” lúc nào không biết. Như người đi trong rừng, không có định hướng rõ ràng, chỉ thấy ở đâu có lối thì đi, dẫn đến càng đi, càng bị lạc. Quản trị chiến lược giúp tổ chức, doanh nghiệp xác định rõ ràng được mục tiêu, hướng đi, vạch ra các con đường hợp lý và phân bổ các nguồn lực một cách tối ưu để đảm bảo đi đến mục tiêu đã định trong quỹ thời gian cho phép. Mục tiêu tổ chức được xác định trên cơ sở các phân tích rất cẩn trọng và khoa học về tình hình thị trường, khách hàng, xu thế tiêu dùng, đối thủ cạnh tranh, sự thay đổi về công nghệ, môi trường pháp lý, tình hình kinh tế xã hội, những điểm mạnh yếu nội tại, các cơ hội và nguy cơ có thể có từ bên ngoài,… do vậy sẽ là những mục tiêu thách thức, nhưng khả thi, đáp ứng được sự mong đợi của cổ đông, của cấp quản lý và nhân viên. Mục tiêu của tổ chức, doanh nghiệp cũng bắt nguồn từ sứ mệnh, tầm nhìn, hoài bão và các giá trị cốt lõi của tổ chức, doanh nghiệp. Sự kết hợp giữa “cái mong muốn” và “cái có thể làm được” thông qua các phân tích khoa học sẽ giúp tổ chức không sa đà vào những ảo tưởng vô căn cứ hay ngược lại bỏ lỡ cơ hội phát triển do đặt ra yêu cầu tăng trưởng quá thấp ngay từ đầu. Ngoài dịch vụ viết luận văn tốt nghiệp của Luận Văn Việt, bạn có thể tham khảo dịch vụ nhận làm báo cáo thuê , xử lý số liệu spss , viết luận văn bằng tiếng anh , làm tiểu luận thuê #luan_van_viet, #luận_văn_việt, #LVV , #làm_luận_văn_tốt_nghiệp_đại_học, #làm_chuyên_đề_tốt_nghiệp, #làm_thuê_đồ_án_tốt_nghiệp_xây_dựng, #làm_thuê_luận_án_tiến_sĩ Xem thêm: https://luanvanviet.com/ly-luan-ve-quan-tri-chien-luoc/
29/10/2019
132 lượt xem
Trong bài viết này, Luận Văn Việt chuyên làm đồ án thuê tại hà nội xin chia sẻ về khái niệm và các tiêu chí của phát triển bền vững. Hãy xem ngay bài viết nếu bạn đang muốn tìm hiểu về chủ đề này. Phát triển bền vững là gì? Phát triển bền vững là gì? 1. Khái niệm phát triển Trước hết cần làm rõ khái niệm “phát triển”, “phát triển” tuy ban đầu được các nhà kinh tế học định nghĩa là “tăng trưởng kinh tế”, nhưng nội hàm của nó từ lâu đã vượt khỏi phạm vi này, được nâng cấp sâu sắc hơn và chính xác hơn. Theo Từ điển Tiếng Việt “phát triển” được hiểu là quá trình vận động, tiến triển theo hướng tăng lên, ví dụ phát triển kinh tế, phát triển văn hoá, phát triển xã hội… [81]. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì “phát triển là phạm trù triết học chỉ ra tính chất của những biến đổi đang diễn ra trong thế giới. Phát triển là một thuộc tính của vật chất. Mọi sự vật và hiện tượng của hiện thực không tồn tại trong trạng thái khác nhau từ khi xuất hiện đến lúc tiêu vong,… nguồn gốc của phát triển là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập” [67]. Phát triển kinh tế là phạm trù kinh tế xã hội rộng lớn, trong khuôn khổ một định nghĩa hay một khái niệm ngắn gọn không thể bao hàm hết được nội dung rộng lớn của nó. Song nhất thiết khái niệm đó phải phản ánh được các nội dung cơ bản sau: — Sự tăng lên về quy mô sản xuất, làm tăng thêm giá trị sản lượng của vật chất, dịch vụ và sự biến đổi tích cực về cơ cấu kinh tế, tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý, có khả năng khai thác nguồn lực trong nước và ngoài nước. — Sự tác động của tăng trưởng kinh tế làm thay đổi cơ cấu xã hội, cải thiện đời sống dân cư. — Sự phát triển là quy luật tiến hoá, song nó chịu tác động của nhiều nhân tố, trong đó nhân tố nội lực của nền kinh tế có ý nghĩa quyết định, còn nhân tố bên ngoài có vai trò quan trọng. Từ trước đến nay, có nhiều định nghĩa, khái niệm khác nhau về phát triển kinh tế, nhưng một cách chung nhất “phát triển kinh tế” được xem là tiến trình mà theo đó các nước tăng cường khả năng sản xuất các hàng hoá và dịch vụ đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Vì vậy, phát triển kinh tế là phương thức duy nhất giúp cho tất cả các dân tộc trên khắp thế giới sống tốt hơn, đặc biệt là các nước có mức thu nhập thấp và trung bình. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế, dù muốn hay không muốn, tất cả các nước dù nghèo hay giàu đều phải đối mặt với những thách thức lớn về môi trường và những vấn đề này lại luôn liên quan chặt chẽ đến các nỗ lực nhằm xoá đói, giảm nghèo và cải thiện mức sống. Việc sử dụng khái niệm “phát triển” thay thế “tăng trưởng kinh tế” từ lâu đã là bằng chứng cho sự hạn chế của việc sử dụng các thông số đo lường như GDP để đánh giá sự phồn vinh của quốc gia. Thực tiễn phát triển ngày nay cho thấy, khái niệm “phát triển” liên quan nhiều đến những vấn đề rộng hơn, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống như thành tựu giáo dục, tình trạng dinh dưỡng, giá trị những quyền tự do cơ bản và đời sống tinh thần… Sự chú trọng vào tính bền vững của phát triển đã đưa ra cách nhìn mới, cho rằng điều quan trọng là các nỗ lực của chính sách phải nhằm đạt được những thành tựu phát triển dài lâu trong tương lai. Theo cách tiếp cận này, nhiều nỗ lực phát triển trong lịch sử chỉ mang lại lợi ích trước mắt. 2. Khái niệm phát triển bền vững Thuật ngữ “phát triển bền vững” xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (do Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (International Union for Conservation of Nature — IUCN công bố) với nội dung rất đơn giản: “Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học” [158] Tuy nhiên, khái niệm phát triển bền vững đã được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 bởi Ủy ban thế giới về môi trường và phát triển (WCED — World Commission on Environment and Development) còn được biết đến là Ủy ban Brundtland. Ủy ban Brundland đã có những đóng góp đáng ghi nhận vào quá trình phát triển bền vững: Thứ nhất, WCED đề ra trách nhiệm của thế hệ hiện tại phải đảm bảo những cơ hội và lựa chọn phát triển của các thế hệ tương lai thông qua việc bảo vệ môi trường và các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Thứ hai, WCED đặt ra mục tiêu giảm nghèo ở các nước đang phát triển như là một trục chính mà các nước cần phải vượt qua. Thứ ba, WCED đúc kết lại việc theo đuổi phát triển bền vững trong bối cảnh nền kinh tế quốc tế bằng cách nhận ra rằng cần phải sắp xếp lại mô hình thương mại quốc tế và dòng vốn cũng như phải đảm bảo được các nước đang phát triển sẽ có ảnh hưởng lớn hơn trong các quan hệ kinh tế đó [189]. Năm 1992, Hội nghị của Liên hợp quốc về môi trường và phát triển được tổ chức ở Rio de Janerio (Braxin) hay còn được gọi là Hội nghị thượng đỉnh trái đất. Tại Hội nghị, các công ước toàn cầu về biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học đã được ký kết; “Hiến chương về trái đất” — một bộ các nguyên tắc được kỳ vọng bởi các chính phủ và người dân cũng đã nhận được sự đồng thuận của 178 chính phủ; một chương trình hành động để thúc đẩy phát triển bền vững còn được gọi là Diễn đàn 21 cũng đã được thông qua; và một cơ chế thể chế trong hệ thống Liên hợp quốc, cụ thể là Ủy ban về phát triển bền vững cũng được thành lập. Tuy nhiên, cho đến nay, thuật ngữ về phát triển bền vững được nói đến nhiều nhất vẫn là thuật ngữ do Ủy ban thế giới về môi trường và phát triển (WCED) đưa ra vào năm 1987, khi cho rằng “Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai [158]. Theo đó phát triển bền vững là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý hài hòa giữa ba mặt: kinh tế, xã hội và môi trường với nội dung cụ thể như sau: Phát triển bền vững về kinh tế là quá trình đạt được tăng trưởng kinh tế ổn định và đều đặn, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô như lạm phát, lãi suất, nợ chính phủ, đảm bảo cân đối cán cân thương mại, đầu tư có chất lượng, có năng suất cao thông qua việc nâng cao hàm lượng khoa học và công nghệ trong sản xuất, không làm phương hại đến xã hội và môi trường. Phát triển bền vững về xã hội là phát triển nhằm đảm bảo sự công bằng trong xã hội, xóa đói giảm nghèo, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, đảm bảo người dân có cơ hội được tiếp cận đầy đủ các dịch vụ cơ bản như y tế, giáo dục nhưng không làm phương hại đến kinh tế và môi trường. Phát triển bền vững về môi trường là việc sử dụng hợp lí tài nguyên thiên nhiên, duy trì một nền tảng nguồn lực ổn định, tránh khai thác quá mức các hệ thống nguồn lực tái sinh. Phát triển bền vững về môi trường cần duy trì sự đa dạng sinh học, sự ổn định khí quyển và các hoạt động sinh thái khác, cần hạn chế vấn đề nhiễm môi trường bao gồm cả ô nhiễm đô thị và khu công nghiệp, cần phải quản lý và xử lý tốt chất thải rắn, chất thải nguy hại, có khả năng ngăn ngừa và giảm thiểu các tác động của biến đổi khí hậu và thiên tai. Ngoài ra, phát triển bền vững về môi trường cần phải hướng được các doanh nghiệp từng bước thay đổi mô hình sản xuất, hướng doanh nghiệp đến các công nghệ sản xuất sạch hơn, thân thiện với môi trường hơn. Phát triển bền vững về môi trường phải đảm bảo không làm phương hại đến kinh tế và xã hội. Ngoài dịch vụ viết luận văn tốt nghiệp của Luận Văn Việt, bạn có thể tham khảo dịch vụ nhận làm báo cáo thuê , dịch vụ chạy spss , viết luận văn bằng tiếng anh , viết tiểu luận thuê #luan_van_viet, #luận_văn_việt, #LVV , #làm_luận_văn_tốt_nghiệp_đại_học, #làm_chuyên_đề_tốt_nghiệp, #làm_thuê_đồ_án_tốt_nghiệp_xây_dựng, #làm_thuê_luận_án_tiến_sĩ Xem thêm: https://luanvanviet.com/phat-trien-ben-vung-la-gi/
Xóa bài viết diễn dàn
X
Khi thực hiện xóa bài viết bạn sẽ bị trừ: -15 điểm tích lũy
Bạn có muốn xóa bài viết này không?